Nhân kỷ niệm ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10, chúng ta cùng điểm lại những quyền chỉ có ở lao động nữ theo quy định tại Bộ luật Lao động hiện hành (Bộ luật Lao động năm 2012: Bộ luật Lao động số 10/2012/QH13) cụ thể như sau:
Thứ nhất là, không được xử lý kỷ luật lao động đối với lao động nữ đang có thai, nghỉ thai sản (khoản 4 điều 123)
Thứ hai là, được khám chuyên khoa phụ sản hàng năm (khoản 2 điều 152)
Thứ ba là,được bảo đảm quyền làm việc bình đẳng (khoản 1 điều 153)
Thứ tư là, được làm việc theo thời gian biểu linh hoạt, làm việc không trọn thời gian (khoản 2 điều 153): Khuyến khích người sử dụng lao động tạo điều kiện để lao động nữ có việc làm thường xuyên, áp dụng rộng rãi chế độ làm việc theo thời gian biểu linh hoạt, làm việc không trọn thời gian, giao việc làm tại nhà
Thứ năm là, được giúp phát huy có hiệu quả năng lực nghề nghiệp, kết hợp hài hoà cuộc sống lao động và cuộc sống gia đình (khoản 3 điều 153): Có biện pháp tạo việc làm, cải thiện điều kiện lao động, nâng cao trình độ nghề nghiệp, chăm sóc sức khoẻ, tăng cường phúc lợi về vật chất và tinh thần của lao động nữ nhằm giúp lao động nữ phát huy có hiệu quả năng lực nghề nghiệp, kết hợp hài hoà cuộc sống lao động và cuộc sống gia đình.
Thứ sáu, khoản 5 điều 153 quy định là mở rộng nhiều loại hình đào tạo thuận lợi cho lao động nữ có thêm nghề dự phòng và phù hợp với đặc điểm về cơ thể, sinh lý và chức năng làm mẹ của phụ nữ.
Lao động nữ trong một doanh nghiệp may mặc (Ảnh sưu tầm)
Thứ bảy là, không phải làm việc ban đêm, làm thêm giờ hoặc đi công tác xa (khoản 1 điều 155): người sử dụng lao động không được sử dụng lao động nữ làm việc ban đêm, làm thêm giờ và đi công tác xa trong các trường hợp sau đây: a) Mang thai từ tháng thứ 07 hoặc từ tháng thứ 06 nếu làm việc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; b) Đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
Thứ tám là, chuyển làm công việc nhẹ hơn hoặc được giảm bớt 01 giờ làm việc/ngày(khoản 2 điều 155): Lao động nữ làm công việc nặng nhọc khi mang thai từ tháng thứ 07, được chuyển làm công việc nhẹ hơn hoặc được giảm bớt 01 giờ làm việc hằng ngày mà vẫn hưởng đủ lương.
Thứ chín là, không bị sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (khoản 3 điều 155): Người sử dụng lao động không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với lao động nữ vì lý do kết hôn, mang thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi, trừ trường hợp người sử dụng lao động là cá nhân chết, bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết hoặc người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động.
Thứ mười là, nghỉ trong thời gian hành kinh, nuôi con nhỏ (khoản 5 điều 155): Lao động nữ trong thời gian hành kinh được nghỉ mỗi ngày 30 phút; trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi, được nghỉ mỗi ngày 60 phút trong thời gian làm việc. Thời gian nghỉ vẫn được hưởng đủ tiền lương theo hợp đồng lao động.
Thứ mười một là, được quyền đơn phương chấm dứt, tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động (điều 156): Lao động nữ mang thai nếu có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền chứng nhận tiếp tục làm việc sẽ ảnh hưởng xấu tới thai nhi có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động. Thời hạn mà lao động nữ phải báo trước cho người sử dụng lao động tuỳ thuộc vào thời hạn do cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền chỉ định.
Thứ mười hai là, được hưởng các chế độ về nghỉ thai sản (điều 157):
Lao động nữ được nghỉ trước và sau khi sinh con là 06 tháng. Trường hợp lao động nữ sinh đôi trở lên thì tính từ con thứ 02 trở đi, cứ mỗi con, người mẹ được nghỉ thêm 01 tháng. Thời gian nghỉ trước khi sinh tối đa không quá 02 tháng.
Trong thời gian nghỉ thai sản, lao động nữ được hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.
Hết thời gian nghỉ thai sản theo quy định tại khoản 1 Điều này, nếu có nhu cầu, lao động nữ có thể nghỉ thêm một thời gian không hưởng lương theo thoả thuận với người sử dụng lao động.
Trước khi hết thời gian nghỉ thai sản theo quy định tại khoản 1 Điều này, nếu có nhu cầu, có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền về việc đi làm sớm không có hại cho sức khỏe của người lao động và được người sử dụng lao động đồng ý, lao động nữ có thể trở lại làm việc khi đã nghỉ ít nhất được 04 tháng. Trong trường hợp này, ngoài tiền lương của những ngày làm việc do người sử dụng lao động trả, lao động nữ vẫn tiếp tục được hưởng trợ cấp thai sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.
Thứ mười ba là, lao động nữ nghỉ thai sản được bảo đảm việc làm (điều 158): Lao động nữ được bảo đảm việc làm cũ khi trở lại làm việc sau khi nghỉ hết thời gian theo quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 157, trường hợp việc làm cũ không còn thì người sử dụng lao động phải bố trí việc làm khác cho họ với mức lương không thấp hơn mức lương trước khi nghỉ thai sản.
Thứ mười bốn là, được trợ cấp khi nghỉ để chăm sóc con ốm, khám thai, thực hiện các biện pháp tránh thai (điều 159): Thời gian nghỉ việc khi khám thai, sẩy thai, nạo, hút thai, thai chết lưu, phá thai bệnh lý, thực hiện các biện pháp tránh thai, chăm sóc con dưới 07 tuổi ốm đau, nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi, lao động nữ được hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.
Cuối cùng là, Bộ luật quy định rõ các Công việc không được sử dụng lao động nữ (điều 160): Công việc có ảnh hưởng xấu tới chức năng sinh đẻ và nuôi con theo danh mục do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp với Bộ Y tế ban hành; Công việc phải ngâm mình thường xuyên dưới nước; Công việc làm thường xuyên dưới hầm mỏ.
Kể từ ngày 01/01/2021, Bộ luật Lao động 2019 (Bộ luật số: 45/2019/QH14 ngày 20/11/2019) chính thức có hiệu lực, thay thế Bộ luật Lao động số 10/2012/QH13, Bộ luật Lao động 2019 có 17 chương, 220 điều, Bộ luật có nhiều thay đổi so với Bộ luật Lao động 2012, như: Tuổi nghỉ hưu tăng (tăng theo lộ trình, mỗi năm tăng thêm 03 tháng đối với lao động nam và 04 tháng đối với lao động nữ – điều 169); bổ sung thêm 01 ngày nghỉ trong năm là ngày liền kề trước hoặc sau với ngày Quốc khánh (điểm đ khoản 1 điều 112); Người lao động có thể đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động mà không cần báo trước trong một số trường hợp (khoản 2 điều 35); Không còn hợp đồng lao động theo mùa vụ (Điều 20); bổ sung thêm 02 trường hợp người lao động được nghỉ việc riêng và hưởng nguyên lương (cha, mẹ nuôi chết – điều 115); Người sử dụng lao động không được ký hợp đồng lao động để trừ nợ (khoản 3 điều 17); Đối thoại tại nơi làm việc 1 năm/lần (khoản 2, điều 63); Giới hạn thời gian học nghề, tập nghề để làm việc cho người sử dụng lao động (khoản 1, khoản 2 điều 61: thời gian tập nghề của người lao động không quá 03 tháng còn thời gian học nghề theo chương trình đào tạo của từng trình độ theo quy định của Luật Giáo dục nghề nghiệp); Doanh nghiệp phải thông báo bảng kê trả lương khi trả lương cho người lao động (khoản 3 điều 95); Bổ sung thêm thời gian thử việc đối với người quản lý doanh nghiệp không quá 180 ngày (điều 25); Đã xác định rõ những hành vi phân biệt đối xử trong lao động (khoản 8, điều 3) và những hành vi quấy rối tình dục tại nơi làm việc (khoản 9 điều 3); Uỷ quyền nhận lương (khoản 1 điều 94). Bên cạnh những quyền chung của một người lao động thì Bộ luật Lao động năm 2019 dành chương X để quy định thêm những quyền mà chỉ lao động nữ mới có. Quyền lợi của lao động nữ có những thay đổi kể từ năm 2021, đơn cử như tại: Điều 137 Trường hợp hợp đồng lao động hết hạn trong thời gian lao động nữ mang thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì được ưu tiên giao kết hợp đồng lao động mới; Điều 140 về bảo đảm việc làm cũ cho lao động nữ khi trở lại làm việc sau khi nghỉ hết thời gian nghỉ thai sản(Bộ luật Lao động năm 2012 chỉ quy định bảo đảm việc làm cũ cho người lao động khi trở lại làm việc mà không nói gì thêm về chế độ lương và lợi ích của người lao động. Quy định mới đã bổ sung quy định về việc không bị cắt giảm tiền lương, lợi ích so với trước khi nghỉ).
MÂY TRẮNG
1214050295713110
0918544418
0918544418
congdoantravinh
02943862456